Y tế Vĩnh Tường

Dưới thời Pháp thuộc, y tế của huyện hầu như không được phát triển. Trong huyện không có bệnh viện khám chữa cho nhân dân, việc chữa bệnh chủ yếu nhờ vào các phương thuốc dân gian của các thầy lang.

Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, hoạt động y tế huyện được tăng cường dưới chính quyền cách mạng. Đội ngũ vệ sinh viên tới tận các thôn xóm trong toàn huyện, trở thành lực lượng tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân giữ vệ sinh, phòng bệnh. Được sự giúp đỡ của Tỉnh ủy, huyện đã lập phòng khám chữa bệnh với một số thiết bị, dụng cụ y tế và thuốc men. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, trang thiết bị thiếu thốn, song đây cũng là một bước tiến của y tế huyện, đã phần nào đáp ứng được nhu cầu của nhân dân.

Những năm chiến tranh chống đế quốc Mỹ, mạng lưới y tế từ huyện xuống xã tiếp tục được xây dựng và củng cố. Từ chỗ toàn huyện chỉ có một bệnh xã nhỏ đã phát triển thành bệnh viện huyện với hơn 30 giường bệnh. Các trạm y tế ở tất cả các xã được mở rộng. Năm 1967, đã khám bệnh cho 45.355 người, chữa bệnh cho trên 13.000 người. Phong trào vệ sinh phòng bệnh được đẩy mạnh với trọng tâm là xây dựng nhà tắm, giếng nước và nhà tiêu. Năm 1975, một số trạm xá xã như Vũ Di, Lũng Hòa, Thổ Tang, Tuân Chính, Thượng Trưng…đã biết kết hợp Đông - Tây y trong điều trị bệnh có kết quả. Công tác vận động sinh đẻ có kế hoạch đạt hiệu quả, tỷ lệ tăng dân số của huyện giảm, năm 1973 là 3,7%, năm 1974 còn 3,3%.

Những năm thực hiện đường lối đổi mới, sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân của ngành y tế huyện Vĩnh Tường đã có những bước phát triển rất đáng kể, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu và nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe và khám chữa bệnh cho nhân dân.

Trang thiết bị phục vụ y tế được tăng cường đầu tư, nâng cấp. Phong trào xây dựng xã đạt Chuẩn quốc gia về y tế đã và đang phát triển. Đến năm 2008, toàn huyện đã có 100% xã được công nhân đạt Chuẩn quốc gia về y tế. Trên 93% số xã có bác sĩ.

Từ năm 2009-2010, huyện Vĩnh Tường là một trong những huyện dẫn đầu về công tác y tế của tỉnh Vĩnh Phúc. Hiện tại, huyện có một Phòng y tế là cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện. Bệnh viện Đa khoa huyện ngày càng được mở rộng với 200 giường bệnh được trang bị đầy đủ về trang thiết bị, có đội ngũ chuyên môn khá đáp ứng được hầu hết các nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Ngoài ra, huyện cũng xây dựng thêm hai phòng khám đa khoa khu vực và một phòng khám đa khoa tư nhân; một trung tâm y tế chuyên làm công tác y tế dự phòng, một trung tâm dân số KHHGĐ chuyên làm công tác tuyên truyền về các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác dân số; một Trung tâm Vệ sinh an toàn thực phẩm với chức năng chính là làm nhiệm vụ tuyên truyền về công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, thanh tra, kiểm tra và thẩm định các cơ sở chế biến và kinh doanh thực phẩm đủ điều kiện thì cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm. Công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em, kế hoạch hóa gia đình và các chương trình mục tiêu y tế Quốc gia được quan tâm thực hiện tốt.

Cơ sở vật chất của các trạm y tế được nâng cấp khang trang, trang thiết bị được đầu tư. Các cán bộ y tế thường xuyên được cử đi học nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ từ huyện đến xã. Tính đến năm 2009, 100% trạm y tế các xã, thị trấn có bác sỹ, đủ cán bộ theo cơ cấu.

Tổng số cán bộ y tế trong toàn huyện hiện nay là 370 cán bộ, trong đó có 55 bác sĩ (không tính số bác sĩ đã nghỉ hưu và bác sĩ tư nhân), bình quân 1 bác sĩ/3,5 nghìn dân (đạt tỷ lệ cao nhất trong toàn tỉnh và cả nước). 100% các thôn đều có nhân viên y tế và cộng tác viên dân số.

Công tác khám chữa bệnh ngày càng được chú trọng. Bình quân mỗi người dân được khám bệnh 2 lần/năm. Công tác khám và điều trị y học dân tộc với y học hiện đại luôn được kết hợp. Hiện nay, 100% các xã, thị trấn có vườn thuốc nam mẫu. Tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ đạt 100%; Tỷ lệ trẻ em 6-36 tháng tuổi dược uống Vitamin A đạt 100%; Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng là 13,5%; Tỷ lệ bà mẹ mang thai được tiêm AT đầy đủ 100%; Số cặp vợ chồng áp dụng các biện pháp tránh thai đạt từ 85- 87%. Trong các năm từ 2003 đến 2011, tỷ lệ sinh ở huyện Vĩnh Tường luôn duy trì ở mức ổn định, năm 2003 ở mức 1.74% đến năm 2011 là 1,73%; tỷ lệ tử là 0,51; tỷ lệ phát triển dân số là l,27%; Tuổi thọ trung bình đạt: 73 tuổi; Tỷ lệ sử dụng nước hợp, tỷ lệ này giảm mạnh ở các năm 2004, 2005 (cả hai năm đều đạt 1.66%); tỷ lệ công trình vệ sinh đạt 100%, trong đó tự hoại là 40% còn lại là hai ngăn.